Lích Sử Văn Minh Thế Giới - TB lần 22 năm 2022

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ có giao tiếp mà các đặc trưng xã hội của con người được hình thành, cá nhân...
  • Giao hàng toàn quốc
  • Được kiểm tra hàng
  • Thanh toán khi nhận hàng
  • Chất lượng, Uy tín
  • 7 ngày đổi trả dễ dàng
  • Hỗ trợ xuất hóa đơn đỏ

Giới thiệu Lích Sử Văn Minh Thế Giới - TB lần 22 năm 2022

Giao tiếp là điều kiện tồn tại của con người, là yếu tố quyết định sự hình thành và phát triển của mỗi cá nhân. Nhờ có giao tiếp mà các đặc trưng xã hội của con người được hình thành, cá nhân lĩnh hội được những kinh nghiệm xã hội lịch sử, chuyển hóa thành những kinh ilan anob 562 695. gog nghiệm riêng của cá nhân, thành phẩm chất và năng lực của chính mình để tham gia vào các hoạt động xã hội. Ở Việt Nam, trước đây việc đào tạo kỹ năng mềm nói chung và kỹ g giao tiếp nói tiên đã năng nói riêng chưa được chú trọng. Việc đào tạo trong các trường học đại học, cao đẳng và trung cấp chuyên nghiệp vẫn nặng về kiến thức chuyên môn, dẫn đến học sinh khi ra trường được trang bị nhiều kiến thức chuyên môn, nhưng kỹ năng giao tiếp và các kỹ năng làm việc cụ thể lại rất hạn chế. Cuốn sách Kỹ năng giao tiếp được biên soạn dựa theo chương trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành sẽ cung cấp những kiến thức lý luận và thực tiễn về vấn đề giao tiếp trong cuộc sống nói chung và trong hoạt động nghề nghiệp nói riêng. Để thực hiện được mục tiêu đã đặt ra, cuốn sách được thiết kế gồm có ba chương sau: Chương 1: Lý luận chung về kỹ năng giao tiếp Chương 2: Một số kỹ năng giao tiếp Chương 3: Kỹ năng giao tiếp trong tìm kiếm việc làm và tại nơi làm việc DAM DANG Trong cuốn sách này, các tác giả đã cố gắng trình bày một cách có hệ thống phần lý thuyết và sau mỗi chương đều đưa ra hệ thống câu hỏi ôn tập và thảo luận, thực hành của chương, đặc biệt là thiết kế các bài tập hình huống nhằm giúp cho học sinh trong quá trình học tập vừa được 3     Để giải Các bài toán về Tôi ưu hóa và Điều khiển tôi ưu có thể dùng một số phần mềm chuyên dụng riêng rẽ cho từng loại bài toán. Sau quá trình thử nghiệm, tác giả đã lựa chọn Maple của Maplesoft, Canada. Đây là một phần mềm Khoa học Kỹ thuật thích hợp cho các sinh viên và kỹ sư. - Maple làm việc theo chế độ thông dịch, cho phép người sử dụng và Maple trao đổi trực tiếp với các câu lệnh không phức tạp, không bị gò bó vào các khuôn mẫu. - Maple rất mạnh trong tính toán bằng chữ, ký tự. - Có thể dùng Maple để giải Các bài toán cơ bản về Tôi ưu hóa và Điều khiển tối ưu và nhiều bài toán về Khoa học Kỹ thuật, Kinh tế,... Nếu bạn đọc quan tâm đến giải bài ài toán Tối t ưu hóa và Điều khiển tối ưu bằng phần mềm MATLAB, xin xem thêm Phụ lục A trong sách [1]. 93 Các tác giả xin chân thành cảm ơn các đồng nghiệp ở Bộ môn Cơ học Kỹ thuật, Viện Cơ khí, Đại học Bách khoa Hà Nội đã tạo điều kiện thuận lợi để hoàn thành cuốn sách này. PGS.TS. Nguyễn Quang Hoàng đã đọc bản thảo và góp nhiều ý kiến thiết thực. TS. Nguyễn Minh Phương đã đóng góp cho phần sử dụng Maple. Mọi ý kiến đóng góp của bạn đọc xin gửi về: 189 Xin trân trọng cảm ơn! chiều không tốt ngh 189 Các tác giả     sản xuất nông nghiệp sạch và bền vững, các chế phẩm sinh học ngày càng được quan tâm và đưa vào sử dụng trong trồng trọt, chăn nuôi và nuôi trồng thủy sản. Nội dung của vấn đề này là sử dụng các vi sinh vật có ích hoặc những hoạt chất sinh học do chúng tạo ra giúp cho các đối tượng nông nghiệp nâng cao được khả năng đồng hóa và trao đổi chất, nâng cao tính đề kháng với bệnh tật, tạo ra những điều kiện sống của cây trồng và vật nuôi hài hòa với thiên nhiên. Ngoài ra, có thể sử dụng các hợp chất hữu cơ tự nhiên làm chế phẩm cân đối dinh dưỡng hoặc làm phân bón hữu cơ thân thiện với môi trường. Quyển sách gồm hai phần: Các chế phẩm sinh học, dùng trong trồng trọt và Các chế phẩm sinh học dùng trong chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản. Trên cơ sở là các bài giảng chuyên đề của các lớp cao học sinh học cùng với 2 quyển sách của tác giả về một phần của vấn đề này được biên soạn lại. Đối tượng của sách phục vụ cho những ai quan tâm đến việc sử. dụng các chế phẩm sinh học, đặc biệt là từ vi sinh vật, vào sản xuất nông nghiệp. Sách cũng giúp cho sinh viên những năm cuối và học viên cao học các trường cao đẳng và đại học thuộc chuyên ngành Công nghệ sinh học, Công nghệ thực phẩm, Công nghệ sau thu hoạch của các trường nông nghiệp cũng như kinh tế có liên quan. Việc sử dụng các chế phẩm sinh học trong nông nghiệp hiện nay rất đa dạng và phong phú nên sách chưa thể đáp ứng hết được nhu cầu của các bạn đọc. Tác giả và Nhà xuất bản hoan nghênh các ý kiến đóng góp bổ sung của bạn đọc. Mọi ý kiến đóng góp xin gửi về Công ty Cổ phần sách Đại học Dạy nghề, Nhà xuất bản Giáo dục Việt Nam, 25 Hàn Thuyên, Hà Nội, ĐT (043) 8264974. Xin chân thành cảm ơn.     Sau hơn ba mươi nghìn năm tồn tại và phát triển', con người bỗng nhận ra: Nếu không có năng lực cảm nhận (EQ = Emotion quotient), cá nhân chỉ là người sao chép giỏi, nhưng kém khả năng nhạy bén và sáng tạo ra cái mới. Ngày xưa các bậc hiền nhân coi những người có cảm nhận đột khởi là Trạng. Nguyễn Bỉnh Khiêm được tôn vinh là Trạng Trình; ông đã có những cảm nhận anh minh trong lời khuyên Nguyễn Hoàng em vo Trịnh Kiểm tránh được hoạ “nổi da nấu thịt” và trở thành người “đi mở cõi”. Nguyễn Hoàng vốn là con trai của Chiêu Quân công Nguyễn Kim. Nguyễn Kim vốn là tướng cũ của nhà Lê cùng các đại thần lập Duy Ninh làm vua, nối nghiệp nhà Lê. Sau Nguyễn Kim bị Dương Chấp Nhất sát hại. Con rể Nguyễn Kim là Trịnh Kiểm thâu tóm quyền bính mở đầu thời kỳ “Vua Lê – Chúa Trịnh”. Khi Nguyễn Hoàng trưởng thành muốn giành lại quyền hành của cha từ tay Trịnh Kiểm, nhưng chưa có lực lượng, bèn sai người đến hỏi Trạng Trình và đã được Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm tặng câu thơ: hort 4 “Hoành sơn nhất đái, vạn đại dung thân” Nguyễn Hoàng là Bỉnh Khiêm, bèn nhờ , "gười rất thông minh, hiểu oay ý của N ngay Nguyễn chị gái là Ngọc Bảo (vợ Trịnh Kiểm) xin cho vào trấn thủ xứ Thuận Quảng. Lúc đó, Ngọc Bảo vừa sinh được con trai đặt tên là Trịnh Tùng, có tướng mạo đẹp và tài lạ hơn người. Trịnh Kiểm hết sức vui mừng, vì thế lời xin của Ngọc Bảo cho cậu em ruột là Nguyễn Hoàng liền được Trịnh Kiểm chấp nhận. V Khi vào đến Thuận Quảng, sau. sau một thời gian củng cố lực lượng, họ Nguyễn đã xưng Chúa, gọi là Chúa Nguyễn. Nhờ tư duy anh minh của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, hai anh em họ Trịnh và họ Nguyễn tạo nên hai thế đứng làm cho nước ta lúc đó có Đàng ngoài và Đàng trong, lập nên thế cân bằng giữa hai lực lượng, thúc đẩy quy luật: “Mẫu thuẫn là động lực của sự phát triển”. 09:34     10:37 14/04/2022     phẩm thuốc là một loại hàng hóa đặc biệt, liên quan đến và cộng đồng. Trong nhiều trường hợp, người dùng thuốc không tự quyết định sử dụng loại thuốc nào, số lượng bao nhiêu và cách thức sử dụng ra sao. Người bệnh buộc phải tuân thủ nghiêm ngặt những chỉ định, hướng dẫn liên quan đến việc sử dụng thuốc. Rõ ràng nhu cầu sử dụng thuốc rất lớn và đa dạng, nhưng có tính bị động cao nên về cơ bản, quyền lực của người mua lại phụ thuộc vào người thứ ba đó là các bác sỹ và cả các dược sỹ cộng đồng (trong trường hợp được thay thế thuốc). Bởi vậy các doanh nghiệp dược có cần áp dụng marketing hay không? Quan hệ giữa nghệ thuật marketing với trách nhiệm xã hội, đạo đức kinh doanh của các doanh nghiệp dược sẽ như thế nào? Chúng ta đã biết tư tưởng cơ bản của marketing là thỏa mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng thông qua các hoạt động sản xuất và thương mại cụ thể nhằm đạt được hiệu quả kinh doanh cao hơn đối thủ cạnh tranh. Chính vì vậy tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế thị trường có cạnh đều cần phải áp dụng marketing. In tranh, deu Trọng tâm của mô hình marketing dược là khách hàng/người bệnh. Trong marketing dược phẩm, “chúng ta cần phải biết khách hàng của chúng ta thuộc nhóm bệnh nào hơn là chúng ta chỉ quan tâm xem người đó mắc bệnh gì”. Đối với ngành công nghiệp dược phẩm tất cả mọi người đều là khách hàng. Tuy nhiên người bệnh là loại khách hàng đặc biệt và marketing dược có những điểm khác biệt so với marketing của các doanh nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng (thị trường B2C) hay hàng công nghiệp (thị trường B2B). Những đặc điểm cơ bản của marketing được thể hiện trước hết và chủ yếu ở việc đáp ứng đầy đủ yêu cầu “năm đúng” là: Đúng đối tượng (người bệnh); đúng cách dùng và đường dùng; đúng liều lượng và số lượng; đúng thời gian; đúng thuốc (Right Patient; right route; right dose; right time; right medication). Bởi vì dược phẩm có ảnh hưởng đến sức khỏe người bệnh và cộng đồng, một vài trong số những yếu tố này thậm chí đóng vai trò quan trọng hơn là việc kích thích sản lượng bán hàng. Cuốn sách Marketing Dược phẩm kết cấu theo lôgic marketing hiện đại, gồm 10 chương với ba chủ đề chính. Thứ nhất, giới thiệu về marketing dược phẩm và đặc điểm của môn học. Thứ hai, nghiên     Ngay từ thời cổ đại, con người đã biết đốt lửa sưởi ấm vào mùa đông và dùng quạt hoặc tìm vào các hang động mát mẻ vào mùa hè. Hoàng đế thành Rôm Varius Avitus trị vì từ năm 218 đến 222 đã cho đắp cả một núi tuyết trong vườn thượng uyển để mùa hè có thể thưởng ngoạn những ngọn gió mát thổi vào cung điện. Trong cuốn "The Origins of Air Conditioning" đã nhắc đến rất nhiều tài liệu tham khảo và giới thiệu nhiều hình vẽ mô tả những thử nghiệm về điều hoà không khí... Ví dụ, Agricola đã mô tả một công trình bơm không khí xuống giếng mỏ để cung cấp khí tươi cũng như điều hoà nhiệt độ cho công nhân mỏ vào năm 1555. Nhà bác học thiên tài Leonardo de Vinci cũng đã thiết kế và chế tạo hệ thống thông gió cho một giếng mỏ. Ở Anh, Humphrey Davy đã trình Quốc hội một dự án cải thiện không khí trong toà nhà Quốc hội. Năm 1845, bác sĩ người Mỹ John Gorrie đã chế tạo máy lạnh nén khí đầu tiên để điều hoà không khí cho bệnh viện tư của ông. Chính sự kiện này đã làm cho ông nổi tiếng thế giới và đi vào lịch sử của kỹ thuật điều hoà không khí. Năm 1850, nhà thiên văn học Piuzzi Smith người Scotland lần đầu tiên đưa ra dự án điều hoà không khí phòng ở bằng máy lạnh nén khí. Sự tham gia của nhà bác học nổi tiếng Rankine đã làm cho đề tài không những trở nên nghiêm túc mà còn được đông đảo mọi người quan tâm theo dõi. Bắt đầu từ những năm 1860 ở Pháp, F. Carré đã đưa ra những ý tưởng về điều hoà không khí cho các phòng ở và đặc biệt cho các nhà hát. Theo C. Linde, ngay cả vào thời điểm những năm 1890 và sau đó, người ta vẫn chưa hiểu được những yêu cầu vệ sinh của không khí đối với con người cũng như những khả năng kinh tế mà ngành kỹ thuật này có thể tạo ra, tuy rằng không có khó khăn gì về mặt kỹ thuật. Năm 1894, Công ty Linde đã xây dựng một hệ thống điều hoà không khí bằng máy lạnh amoniac dùng để làm lạnh và khử ẩm không khí     Cuốn sách Học hỏi của tổ chức trong các trường đại học tại Việt Nam là kết quả nghiên cứu của tác giả giai đoạn 2014–2017 trong bối cảnh đổi mới 2014-2017 giáo dục đại học tại Việt Nam theo định hướng tự chủ và tăng trách nhiệm giải trình để thể nâng cao chất lượng đào tạo nhằm đáp ứn xã hội. Các kết quả nghiên cứu và thực tiễn quản trị đại học tại Việt Nam đều ứng nhu cầu của cho thấy rõ rằng các trường đại học nào phát huy được nguồn lực tri thức di dào của nhà trường vào chính hoạt động quản lý của nhà trường thông qua quá trình học hỏi của tổ chức thì sẽ có kết quả hoạt động vượt trội và có bức bước phát triển bền vững. you mil 60. Trong quá trình nghiên cứu và biên soạn cuốn sách này tác giả đã nhận được sự hợp tác và hỗ trợ của nhiều nhà khoa học tại các trường đại học trong và ngoài nước, gồm: Đại học Kinh tế Quốc dân, Học viện Công nghệ Bưu chính Viễn thông và Đại học Bang Colorado – Hoa Kỳ. Tác giả trân trọng cảm ơn sự hỗ trợ và các ý kiến góp ý của các nhà khoa học để cuốn sách này có thể trở thành tài liệu tham khảo hữu ích cho độc giả trong quá trình nghiên cứu, học tập hay hoạt động thực tiễn quản trị đại được m đàn trị đại học tại Việt Nam. Mặc dù tác giả đã cố gắng trong quá trình nghiên cứu cũng như xuất bản cuốn sách, nhưng chủ đề học hỏi của tổ chức trong các trường đại học còn rất mới mẻ tại Việt Nam nên cuốn sách không tránh khỏi những khiếm khuyết. Tác giả rất mong nhận được ý kiến góp ý, trao đổi của các độc giả để cuốn sách được hoàn thiện hơn trong những lần tái bản sau. Trân trọng cảm ơn!     Phần cứng máy tính và các thiết bị ngoại vi là một phần không thể tách rời của công nghệ thông tin. Các sinh viên chuyên ngành Công nghệ thông tin cần phải nắm được cấu tạo, các đặc trưng kỹ thuật qua đó sử dụng và quản lý hiệu quả các thiết bị phần cứng đích máy tính. Với kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm về thiết bị phần cứng, tác giả mạnh dạn biên soạn cuốn sách “Quản lý hệ thống máy tính và các thiết bị ngoại vi” nhằm mục cung cấp cho sinh viên những kiến thức cơ bản nhất theo hướng thực hành về phần cứng máy tính và các thiết bị ngoại vi. Ở cuối mỗi chương của cuốn sách đều có một hệ thống câu hỏi và bài tập nhằm giúp cho người đọc tự củng cố kiến thức của mình sau khi nghiên cứu hết mỗi chương. Cuốn sách gồm 9 chương: Chương 1 trình bày về bộ nguồn của máy tính cá nhân. Chương này nêu nên tầm quan trọng của bộ nguồn đối với hệ thống máy tính. Nội dung chính của chương trình bày về nguyên lý cấu tạo và hoạt động của bộ nguồn, các loại bộ nguồn và các vấn đề về bảo trì bộ nguồn. Chương 2 thảo luận về bộ nhớ truy cập ngẫu nhiên (RAM). Nội dung của chương trình bày chi tiết về một số loại RAM đã và đang được sử dụng trong các máy tính cá nhân cùng với đặc trưng kỹ thuật mỗi loại. Các vấn đề về lắp đặt, bảo trì RAM cũng được đề cập tới trong phần cuối của chương này. Chương 3 giới thiệu về bộ vi xử lý, nội dung của chương bao gồm các vấn đề chính sau: các đặc trưng kỹ thuật và công nghệ của bộ vi xử lý, các thế hệ bộ vi xử lý, các vấn đề về tháo lắp, nâng cấp và xử lý các sự cố thông thường của bộ vi xử lý. Chương 4 trình bày một cách cơ bản, có hệ thống theo hướng thực hành về bảng mạch chính. Nội dung của chương này cho thấy tầm quan trọng của bảng mạch chính đối với hệ thống máy tính, bảng mạch chính có thể coi là nền tảng cho việc lựa chọn một hệ máy tính có hiệu năng cao. Nắm vững nội dung của chương này sẽ giúp các bạn tạo cho mình một hệ thống đồng bộ và nâng cao khả năng vốn có về hệ thống máy tính. Các loại bảng mạch chính đã và đang được sử dụng cho các máy tính cá nhân, các thành phần chính của một bảng mạch chính thông dụng, các vấn đề về lắp đặt, bảo trì bảng mạch chính cũng được trình bày chi tiết trong chương này. Chương 5 trình bày một cách cơ bản về một số loại cổng vào/ra quan trọng nhất trên các hệ thống máy tính cá nhân hiện nay. Nội dung của chương cung cấp cho sinh viên các 11:02     13:51 14/04/2022     To rong khoảng 5 năm trở lại đây, tinh thần khởi nghiệp trong cộng đồng tại Việt Nam ngày càng tăng cao. So với thế giới, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn khả non trẻ, nhưng lại có rất nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp và tạo dựng môi trường khởi nghiệp cho giới trẻ. Việt Nam đã chọn năm 2016 là năm Quốc gia khởi nghiệp. Điều này cho thấy những đổi mới trong tư duy và đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước trong việc tạo dựng môi trường thuận lợi nhất để hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp kinh doanh. Theo một bảo cáo khảo sát mới nhất về tinh thần khởi nghiệp của Tập đoàn Amway được thực hiện tại 45 quốc gia với 50861 người tham gia từ 14 tuổi trở lên thì Việt Nam đứng đầu thế giới về chỉ số “tinh thần khởi nghiệp”. Điều này cũng phần nào chứng minh thêm cho một xu hướng khởi nghiệp ngày càng phát triển mạnh mẽ về cả lượng và chất tại Việt Nam. Chi trong vòng 9 tháng đầu năm 2017 đã có hơn 900 nghìn doanh nghiệp thành lập mới tại Việt Nam, tăng khoảng 40% số lượng doanh nghiệp thành lập mới so với cùng kỳ năm 2016. Mặc dù số lượng các doanh nghiệp thành lập mới tăng đều hàng năm, tuy nhiên số lượng các doanh nghiệp tồn tại, thành công và phát triển bền vững là một con số rất khiêm tổn, chỉ chiếm khoảng 10% còn 30% là thất bại và 60% đang cố gắng tồn tại với rất nhiều khó khăn. Tỷ lệ các doanh nghiệp khởi nghiệp tại Việt Nam thất bại hiện nay cao là do nhiều lý do khác nhau. Một trong số những lý do thất bại của các doanh nghiệp đó chính là doanh nghiệp khởi nghiệp mới từ trên ý tưởng, việc quản lý và điều hành doanh nghiệp còn chưa có hệ thống. Các nhà khởi nghiệp tại Việt Nam quản lý mang tính cảm tính và còn thiếu kiến thức và kinh nghiệm để khởi nghiệp. Cuốn sách Khởi sự Kinh doanh được biên soạn nhằm góp thêm vào một góc nhỏ trong hành trang của các doanh nhân trẻ Việt Nam những ngày đầu khởi nghiệp kinh doanh. Cuốn sách trong tả vai trò của doanh nghiệp bối cảnh toàn cầu hoá, những thách thức và cơ hội của doanh     Thời kì hội nhập khu vực và quốc tế đang mở ra những triển vọng vô cùng to lớn cho nghệ thuật. Thế kỉ XX được gọi là thế kỉ mà tất cả những ước mơ của Leona đo Vanhxi đã được thực hiện, con người đã dám sống như câu nói nổi tiếng: “Ai đã nhìn thấy những vì sao thì đừng quay lại trái đất” (thực chất là con người dám sống cho ước mơ của mình). Thế kỉ nào của những khát vọng “ Hôm nay tôi nằm dưới đất, nhưng trí tuệ tôi đo cả những thiên hà” (J. Kêple), thế kỉ nào đi qua "Tội ác và trừng phạt” để đến cõi trường sinh, “ Hôm nay tôi nằm dưới đất, nếu trên mồ tôi vẫn mọc lên những hoa cỏ dại có nghĩa rằng tôi đang sống” (trích Kinh thánh khắc trên bia mộ Đôtxtôiépxki); và từ Nghĩa trang Lovôp, quán cà phê Êcút gắn liền với vẻ đẹp văn hoá Ba Lan đến Nghĩa trang Nghệ thuật ở Xanh Pêtecbua nơi yên nghỉ của nhiều danh nhân văn - hoá,... Từ bảo tàng Luvrơ, tháp Epphen,... của thủ đô nước Pháp, đến bảo tàng Êrmitar ở Xanh Pêtecbua cố đô của Cộng hoà Liên bang Nga, từ cầu treo Glin, cầu treo Cổng Vàng ở Hợp chúng quốc Hoa Kì, đến kim tự tháp gạch nung 365 phòng của Mêhicô..., từ Kim tự tháp Khêớp cách ngày nay hơn 4550 năm với chiều cao 146,6m và diện tích đáy 52900m2 đến Vạn lí Trường thành biểu tượng ý chí của ngàn năm văn hiến Trung Hoa, đến Ăngcovát, Ăngcothom – biểu tượng thế giới tâm linh thánh thần của Campuchia văn vật,... đó là những điểm văn hoá, những công trình mà thời gian như bất lực, những vẻ đẹp kì vĩ, mĩ lệ, hoành tráng như trường tồn với hành tinh mái nhà chung của sáu, bảy tỉ con người. Trở về với vườn tượng xứ Huế mộng mơ bên bờ Hương Giang, mỗi công trình nhỏ nhoi vẫn mang hơi thở của mỗi dân tộc ở nơi đất Việt. Nghệ thuật không có biên giới, nghệ thuật là một thế giới linh diệu với bao dự báo tài tình vừa tinh tế vừa kì lạ.     Các quốc gia châu Á gần gũi về khoảng cách địa lý, có sự tương đồng về văn hóa và có quan hệ kinh tế xã hội chặt chẽ với Việt Nam. Những tri thức về đất nước, kinh tế – xã hội của các nước châu Á cần thiết đối với mỗi người trong công việc, trong cuộc sống Anh và có thể và có thể mang lại lợi ích cho bản thân, cơ quan, doanh nghiệp và cộng đồng. Những thông tin, số liệu về kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới nói chung và các nước châu Á nói riêng luôn cần được bổ sung, cập nhật cho phù hợp với thực tiễn. Địa lý kinh tế – xã hội thế giới là môn học được đưa vào dạy học ở nhiều khoa, ngành trong các trường đại cao đẳng cũng như hệ đại học, cao thống các trường phổ thông trung học tại Việt Nam. Hiện nay hình Thi thức ă đào tạo theo nh theo tín chỉ đã được thực hiện trong nhiều trường đại học ở Việt Nam. Thực hiện hình thức đào tạo này, người học môn Địa lý kinh tế – xã hội thế giới, ngoài giáo trình còn cần có các tài liệu học tập và nghiên cứu, cung cấp những thông tin phong phú, cập nhật, chi tiết hơn về kinh tế – xã hội của các quốc gia trên thế giới. Vì vậy, trên cơ sở nghiên cứu, tham khảo một khối lượng tư liệu lớn của nhiều cơ quan, tác giả trong và ngoài nước, cũng như việc khảo sát thực tiễn ở nhiều quốc gia. Cùng với việc vận dụng kinh nghiệm, kết an quả nghiên cứu, biên soạn giáo trình Địa lý kinh tế – xã hội thế giới, sách Địa lý kinh tế – xã hội châu Âu và nhiều công trình nghiên cứu, chúng tôi tiến hành biên soạn cuốn Địa lý kinh tế – xã hội châu Á (các chỉ số phát triển). Nội dung cuốn sách cung cấp cho quý độc giả nguồn thông tin, số liệu về các nguồn lực tự nhiên, dân cư - xã hội, thể chế chính trị, - bức tranh chung về kinh tế cũng như quan hệ kinh tế với Việt Nam của các khu vực và các nước châu Á,.. Qua đó, góp phần giúp đi độc giả có được những tri thức, nhìn nhận, phương pháp học tập, làm việc, kinh doanh có hiệu quả cao và hạnh phúc trong cuộc sống. Cuốn sách có thể dùng làm tài liệu tham khảo học tập, nghiên cứu cho sinh viên các khoa, ngành trong nhiều trường đại học và cao đẳng, 14:11     11:11 Hôm nay                                       11:20     11:53 Hôm nay     Lịch sử văn minh thế giới là môn học có nhiệm vụ cung cấp những kiến thức cơ bản về quá trình ra đời và phát triển của các nền văn minh tiêu biểu trong lịch sử loài người. Giáo trình này gồm 9 chương đem lại cho người đọc những hiểu biết cơ bản và hệ thống về những nền văn minh tiêu biểu trong thời cổ trung đại ở Bắc Phi, Châu Á, khu vực Mĩ Latinh, nền văn minh công nghiệp và thông tin thời cận hiện đại. ang 43 Về đại thể, nội dung của mỗi chương đề cập đến những điều kiện hình thành nền văn minh, giới thiệu trình độ phát triển kinh tế và phân hóa xã hội, sơ lược lịch sử thành lập và cấu trúc của Nhà nước, những học thuyết chính trị, quan điểm triết học và các tôn giáo lớn cùng những thành tựu khoa học tự như tự nhiên, kĩ thuật và bác văn học học nghệ thuật. hạn Bài mở đầu phân tích những nét chung về khái niệm văn minh và văn hóa, bài kết luận nêu lên những nét khái quát trong tiến trình phát triển của lịch sử văn minh nhân loại, sự vận dụng vào quá trình hội nhập các trào lưu văn minh thế giới và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc. Trên cơ sở những kiến thức khoa học, môn học này nhằm góp phần xây dựng quan điểm nhân văn, biết quý trọng và giữ gìn những sản phẩm vật chất và tinh thần của văn minh nhân loại, biết vận dụng hữu ích vào việc hoàn thiện nhân cách của mỗi người và kiến thiết đất nước theo đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng văn minh.  

Giá sản phẩm trên Tiki đã bao gồm thuế theo luật hiện hành. Bên cạnh đó, tuỳ vào loại sản phẩm, hình thức và địa chỉ giao hàng mà có thể phát sinh thêm chi phí khác như phí vận chuyển, phụ phí hàng cồng kềnh, thuế nhập khẩu (đối với đơn hàng giao từ nước ngoài có giá trị trên 1 triệu đồng).....


Giá MTC

Thông tin chi tiết

Công ty phát hànhCông ty Cổ Phần Sách Đại Học Dạy Nghề
Nhà xuất bảnNhà Xuất Bản Giáo Dục Việt Nam
SKU6319337392449
Liên kết: Phấn Phủ Bột Kiềm Dầu Trong Suốt Oil Clear Blotting Powder

Các sản phẩm vừa xem